U mô đệm dạ dày ruột là gì? Các công bố khoa học về U mô đệm dạ dày ruột

U mô đệm dạ dày ruột là một loại bệnh hoặc triệu chứng liên quan đến đau và khó chịu trong vùng dạ dày và ruột non. U mô là các tổn thương hoặc sưng phình trên ...

U mô đệm dạ dày ruột là một loại bệnh hoặc triệu chứng liên quan đến đau và khó chịu trong vùng dạ dày và ruột non. U mô là các tổn thương hoặc sưng phình trên niêm mạc ruột non hoặc dạ dày. U mô đệm dạ dày ruột gây ra các triệu chứng như đau tức ngực, buồn nôn, trống hơi, chướng bụng, thay đổi tiền đình và tiêu chảy hoặc táo bón. Nguyên nhân chính của u mô đệm dạ dày ruột vẫn chưa được biết rõ nhưng có thể liên quan đến sự tác động của môi trường, yếu tố di truyền, stress hoặc lối sống không lành mạnh. Để chẩn đoán và điều trị u mô đệm dạ dày ruột, người bệnh cần tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa.
U mô đệm dạ dày ruột, còn được gọi là u máu ở ruột, là một loại bệnh lý nằm trong nhóm bệnh viêm loét đường ruột. U mô là các tổn thương, tụy tích hoặc sưng phình trên niêm mạc ruột non hoặc dạ dày.

Triệu chứng chính của u mô đệm dạ dày ruột bao gồm:

1. Đau và khó chịu: Thường là đau tức ngực hoặc đau ở vùng thượng vị. Đau có thể kéo dài và thay đổi theo thời gian.

2. Buồn nôn và nôn mửa: Có thể có cảm giác buồn nôn và thậm chí nôn mửa sau khi ăn.

3. Trống hơi và chướng bụng: Cảm giác đầy bụng, đầy hơi và sưng phồng sau khi ăn.

4. Tiền đình: Thay đổi tiền đình như chóng mặt, hoa mắt, mất cân bằng dễ xảy ra.

5. Tiêu chảy hoặc táo bón: Có thể có những thay đổi về tình trạng tiêu hóa, từ tiêu chảy đến táo bón hoặc thậm chí kết hợp cả hai.

Nguyên nhân chính của u mô đệm dạ dày ruột vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, các yếu tố sau có thể đóng vai trò trong việc gây ra bệnh:

1. Yếu tố di truyền: Có những người có nguy cơ cao mắc u mô đệm dạ dày ruột do di truyền.

2. Môi trường: Môi trường xung quanh và chế độ ăn uống không lành mạnh có thể góp phần vào sự hình thành của u mô.

3. Stress: Các tình trạng căng thẳng, stress mạnh có thể làm tăng nguy cơ mắc u mô đệm dạ dày ruột.

4. Lối sống không lành mạnh: Thói quen ăn uống không tốt, hút thuốc, uống rượu, không có chế độ ăn kiêng cân đối có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Để chẩn đoán u mô đệm dạ dày ruột, bác sĩ thường sẽ tiến hành các xét nghiệm như kiểm tra máu, xét nghiệm nước tiểu, siêu âm và thậm chí là nội soi. Sau đó, điều trị u mô đệm dạ dày ruột sẽ phụ thuộc vào mức độ và triệu chứng của bệnh nhưng thường bao gồm đưa ra lời khuyên về thay đổi lối sống, chỉ định thuốc chống viêm và giảm đau, hoặc thậm chí phẫu thuật nếu cần thiết.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "u mô đệm dạ dày ruột":

VAI TRÒ CỦA IMATINIB TRONG ĐIỀU TRỊ TÂN BỔ TRỢ U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HOÁ: BÁO CÁO 2 TRƯỜNG HỢP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
U mô đệm đường tiêu hoá (Gastrointestinal tromal tumors - GISTs) là u trung mô ác tính thường gặp nhất của đường tiêu hóa, chiếm khoảng 1-3% các u ác tính của dạ dày ruột. Sự phát triển của GISTs do đột biến gen KIT chiếm khoảng 78-88%. GIST ở dạ dày chiếm tỉ lệ cao nhất (40-60%), ruột non (20-30%) và các vị trí khác như đại trực tràng, thực quản. Chẩn đoán dựa vào mô bệnh học và hoá mô miễn dịch CD117 dương tính. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chính, điều trị bổ trợ bằng imatinib giúp kéo dài thời gian sống và giảm tỉ lệ tái phát. Đối với giai đoạn bệnh tiến triển khi mới chẩn đoán việc phẫu thuật không đảm bảo diện cắt âm tính (R0), nhiều biến chứng thì điều trị tân bổ trợ bằng imatinib làm giảm thể tích khối u, giảm giai đoạn, thuận lợi cho phẫu thuật triệt căn và cải thiện kết quả điều trị. Hai trường hợp lâm sàng minh hoạ cho điều trị tân bổ trợ imatinib thành công cho bệnh nhân GISTs giai đoạn muộn tại bệnh viện K.
#U mô đệm dạ dày ruột #Điều trị tân bổ trợ #imatinib
BÁO CÁO CA BỆNH LÂM SÀNG: MỘT TRƯỜNG HỢP U MÔ ĐỆM DẠ DÀY RUỘT (GIST) VÀ UNG THƯ BIỂU MÔ TUYẾN DẠ DÀY CÙNG TỒN TẠI TRÊN MỘT BỆNH NHÂN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Ung thư biểu mô tuyến dạ dày và u mô đệm dạ dày ruột là hai loại u ở dạ dày có sự khác nhau về nguồn gốc phát sinh, mức độ ác tính cũng như tần suất bắt gặp. Số các trường hợp có sự cùng phát triển của cả 2 loại u này ở dạ dày là hiếm gặp. Mục tiêu: Chúng tôi báo cáo một ca bệnh với sự có mặt ở dạ dày của cả u mô đệm dạ dày ruột và ung thư biểu mô tuyến dạ dày được phẫu thuật thành công tại Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện 198 và tổng quan y văn có liên quan đến trường hợp hiếm gặp này.
U MÔ ĐỆM DẠ DÀY RUỘT (GIST): TỪ SIÊU ÂM ĐẾN CỘNG HƯỞNG TỪ
U mô đệm dạ dày ruột: Từ siêu âm đến cộng hưởng từ. Mở đầu. Trước kia được xem là u cơ trơn, mô thần kinh, thượng bì ống tiêu hoá, nay hoá mô miễn dịch xác định với protein KIT CD 117 từ tế bào kẽ Cajal. Bệnh không hiếm gặp nhưng ít được phát hiện sớm. Từ X quang thường quy, siêu âm, chụp cắt lớp vi tính(CLVT), chụp cộng hưởng từ, chụp đồng vị PET đều có thể thấy được. Tuy nhiên đa số phát hiện tình cờ khi kiểm tra sức khoẻ, siêu âm phát hiện được sau đó CLVT khẳng định tìm các chi tiết về hình ảnh.Kết quả: 6 bệnh nhân được phát hiện, 4 tình cờ và can thiệp phẫu thuật có xác minh của giải phẫu bệnh. Giới nam/nữ 2/6. Kích thước dưới 3 cm 4/6, 1 u lớn nhất 30x40 cm. Chưa phát hiện di căn 6/6. 6 ca đều khỏe sau 3 năm. Nhận xét và kết luận. Đa số GIST phát hiện tình cờ, các mẫu hình CĐHA đều phát hiện được. Thời gian sống sau 5 năm phụ thuộc kích thước u. Thường di căn gan, mạc treo nhưng muộn. Siêu âm và CLVT được sử dụng để theo rõi sau điều trị can thiệp và điều trị đích. Phát hiện sớm phụ thuộc vào khám sàng lọc và quan tâm cộng đồng đến khám phát hiện bệnh.
#U mô đệm dạ dày ruột #GIST #Siêu âm #Cắt lớp vi tính #Cộng hưởng từ.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH SIÊU ÂM NỘI SOI U MÔ ĐỆM MẠC DẠ DÀY RUỘT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm hình ảnh nội soi và siêu âm nội soi u mô đệm dạ dày ruột (GIST). Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân có u dưới niêm mạc dạ dày được đánh giá đặc điểm hình ảnh bằng siêu âm nội soi (EUS). Tất cả u được chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học là GIST qua sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm nội soi hoặc phẫu thuật. Kết quả: 28 bệnh nhân có 28 u, với 10 nam và 18 nữ được đưa vào nghiên cứu. Kích thước trung bình của u là 3,94 ± 0,73cm (từ 1,8 đến 6,2 cm). Vị trí u nằm ở lớp cơ là 75%, dưới niêm mạc 21,4% và lớp cơ niêm là 3,6% các trường hợp. Tính chất âm trên siêu âm nội soi, u giảm âm chiếm 14(50%) bệnh nhân, 13(46,4%) bệnh nhân là khối hỗn hợp âm, 1(3,6%) trường hợp tăng âm. Kết luận: Tỷ lệ u GIST gặp cao nhất nằm ở lớp cơ của ống tiêu hóa, với tính chất giảm âm và hỗn hợp âm.
#U mô đệm dạ dày ruột #dạ dày #siêu âm nội soi
DI CĂN HẠCH CỦA U MÔ ĐỆM DẠ DÀY RUỘT (GIST). TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP
U GIST dược coi là ít gặp so với các loại u khác, phát triển từ tế bào Cajal. Triệu chứng lâm sàng nghèo nàn hoặc không rõ nên thường đến khám muộn, một số phát hiện sớm do tình cờ. Số đến muộn có kích thước u to thậm chí có hạch di căn thường tiên lượng xấu. Di căn hạch trong và sau mổ không phổ biến nên ít được chú ý. Loại không có di căn khi mổ lấy u kết hợp hoá trị cũng khó xác định tiên lượng nhưng đa số sống được qua 5 năm. Một trường hợp lâm sàng đã mổ và hóa trị được đánh giá là tốt nhưng di căn hạch ngoại biên nhiều nơi sau 4 năm.
#U mô đệm dạ dày ruột #GIST #di căn hạch.
Tổng số: 5   
  • 1